Những nghi lễ cưới hỏi truyền thống của người Việt
Theo các phong tục ngày xưa, nghi lễ cưới hỏi truyền thống của người Việt phải gồm đủ sáu lễ. Đó là lễ “Nạp thái”, lễ tiếp theo là “Vấn danh”, lễ thứ ba là “Nạp cát”, lễ thứ tư là “Nạp trưng”, lễ thứ năm là “Thỉnh kỳ” và lễ cuối cùng là “Thân nghing”. Nhưng ngày nay, nghi lễ trong cưới hỏi chúng ta đã giản lược chỉ còn ba lễ chính: Chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới.Theo các phong tục ngày xưa, nghi lễ cưới hỏi truyền thống của người Việt phải gồm đủ sáu lễ. Đó là lễ “Nạp thái”, lễ tiếp theo là “Vấn danh”, lễ thứ ba là “Nạp cát”, lễ thứ tư là “Nạp trưng”, lễ thứ năm là “Thỉnh kỳ” và lễ cuối cùng là “Thân nghing”. Nhưng ngày nay, nghi lễ trong cưới hỏi chúng ta đã giản lược chỉ còn ba lễ chính: Chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới.
Lễ nạp thái: người mai mối đem ý định kết sui gia của nhà trai đến thưa chuyện với nhà gái. Sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp “nhạn” để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.
Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con gái. Hỏi tên tuổi cô gái, cốt để nhờ thầy xem tuổi hai người xung hay hạp.
Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi. Đưa tin vui, tức là tin về sự hợp tuổi, hai gia đình có thể tiến tới việc hôn nhân.
Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn. Nạp những lễ vật cần thiết đối với nhà gái
Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới. Nhà trai xin ngày cử hành hôn lễ
Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để rước dâu về.
Nhưng ngày nay, nghi lễ trong cưới hỏi chúng ta đã giản lược chỉ còn ba lễ chính: Chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới.
Lễ chạm ngõ
Lễ chạm ngõ (còn gọi là lễ xem mặt, lễ dạm ngõ) là một nghi lễ trong phong tục hôn nhân của người Việt. Lễ này nhằm chính thức hóa quan hệ hôn nhân của hai gia đình.
Lễ chạm ngõ ngày nay là buổi gặp gỡ giữa hai gia đình. Nhà trai xin đến nhà gái đặt vấn đề chính thức cho đôi nam nữ được tìm hiểu nhau một cách kỹ càng hơn trước khi đi đến quyết định hôn nhân. Buổi lễ này, không cần vai trò hẹn trước của người mối (kể cả những trường hợp yêu nhau nhờ mai mối), không cần lễ vật rườm rà.
Về bản chất, lễ này chỉ là một ứng xử văn hóa, thông qua đó hai gia đình biết cụ thể về nhau hơn (về gia cảnh, gia phong), từ đó dẫn tới quyết định tiếp tục hay không quan hệ hôn nhân của hai gia đình. Lễ vật của lễ chạm ngõ theo truyền thống rất đơn giản: chỉ có trầu cau.
Xét về mặt chức năng: nếu bỏ qua lễ này mà đi thẳng vào lễ ăn hỏi thì mọi việc sẽ bị cảm thấy đường đột, ngang tắt, không có khởi đầu. Vì thế, tuy không phải là một lễ trọng nhưng lại là một lễ không thể thiếu trong tiến trình hôn lễ. Hơn nữa, lễ này không tốn kém (lễ vật chỉ có trầu cau) mà lại biểu thị được bản sắc văn hóa dân tộc (văn hoá trầu cau) thì việc bỏ qua lễ này là điều không hợp lý.
Đối với lễ này, thường người Việt Nam vẫn tiến hành theo khuôn mẫu cổ truyền:
* Thành phần tham gia:
- Nhà trai: Bố, mẹ, chú rể, người mối (nếu có.)Có thể có Ông bà nội, ngoại hoặc chú bác cậu dì bên nội, ngoại.
- Nhà gái: Cả gia đình nhà gái(Cha, mẹ,cô gái; ông bà nội, ngoại hoặc đại diện nôi, ngoại).
*Trang phục:
Mọi người mặc trang phục lịch sự ăn nói nhẹ nhàng có văn hoá. Không nhất thiết mặc comple và áo dài (vì còn phụ thuộc vào thời tiết nắng mưa và địa hình, khoảng cách nhà gái…)
*Lễ vật của nhà trai:
Trầu, cau, chè, thuốc, bánh kẹo, hoa quả (nếu có điều kiện), mỗi thứ đều phải tính chẵn. Lễ này đơn giản, không phải thủ tục rườm rà.
*Nhà gái:
Dọn dẹp nhà cửa sạch, đẹp. Ăn mặc đẹp, trang trọng. Khi đoàn khách nhà trai đến, đón chào niềm nở. Tiếp khách bằng trà (nếu có trà thơm là tốt nhất). Khi nhà gái đồng ý nhận lễ vật, mang đặt lên bàn thờ thì cuộc lễ coi như kết thúc. Sau đó hai bên có thể ngồi lại nói chuyện đôi chút.
Gia đình nhà gái sẽ dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị một buổi gặp gỡ chu đáo để đón tiếp nhà trai. Ảnh: phununet.com
Lễ ăn hỏi
Lễ ăn hỏi còn được gọi là lễ đính hôn là một nghi thức trong phong tục hôn nhân truyền thống của người Việt. Đây là sự thông báo chính thức về việc hứa gả giữa hai họ. Đây là giai đoạn quan trọng trong quan hệ hôn nhân: cô gái trở thành “vợ sắp cưới” của chàng trai, và chàng trai sau khi mang lễ vật đến nhà gái là đã chính thức xin được nhận làm rể của nhà gái và tập gọi bố mẹ xưng con.
Trong lễ ăn hỏi, nhà trai mang lễ vật tới nhà gái. Nhà gái nhận lễ ăn hỏi tức là chính danh công nhận sự gả con gái cho nhà trai, và kể từ ngày ăn hỏi, đôi trai gái có thể coi là đôi vợ chồng chưa cưới, chỉ còn chờ ngày cưới để công bố với hai họ.
*Thành phần tham gia:
Nhà trai: Chú rể, bố mẹ, ông bà, gia đình,bạn bè và một số thanh niên chưa vợ bưng mâm quả (hoặc bê tráp). Thường thì người bê tráp là nữ nhưng do mâm quả bây giờ khá nặng nên có thể thay thế bằng nam. Số người bê tráp là số lẻ, 3, 5, 7, 9 hoặc 11.
Nhà gái: Cô dâu, bố mẹ, ông bà, gia đình và một số nữ chưa chồng để đón lễ ăn hỏi, số nữ đón lễ vật tương ứng với số nam bưng mâm.
asdf - ngoisao.net